Nhật Bản trong mắt thực tập sinh của Việt Nam như thế nào?

Nhật Bản được biết đến là một đất nước văn minh và giàu sức sống, nền văn hóa độc đáo được cả thế giới ngưỡng mộ. Nhờ cung cách làm việc chặt chẽ kỉ luật, Nhật Bản từ đống hoang tàn đổ nát đã chuyển mình vươn lên trở thành cường quốc về kinh tế hàng đầu thế giới. Chỉ những điều đó thôi cũng đủ làm những bạnthực tập sinh Việt Nam đi lao động sang Nhật Bản xôn xao trở thành chủ đề bàn luận nóng hổi. Có nhiều bạn thực tập sinh ấm ức rằng sao cứ so sánh Việt Nam – Nhật Bản làm gì cho tủi thân :D và có bạn đáng yêu hơn bảo” bạn ấy cuồng Nhật Bản nên với bạn ý cái gì của Nhật Bản cũng tốt”. Hehe. Chắc các bạn không đọc kĩ chứ trên blog của tôi những bài tôi dịch từ Hiragana times có nhiều bài người Nhật viết về “người Nhật xấu xí” vô cùng đanh đá!


Nhật Bản trong mắt thực tập sinh người Việt

Thể theo yêu cầu của các bạn, tôi sẽ tạm liệt kê ra đây những vấn đề mà nước Nhật đương đại đang phải đối mặt. Khi trò chuyện thân tình với người Nhật – nhất là những thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, họ thường nửa đùa nửa thật nói rằng: “Tôi rất yêu mến Việt Nam nên vì thế Việt Nam làm sao đừng trở thành như thế”.

Mỗi một vấn đề có thể cần đến một bài phân tích dài, với số liệu thống kê thực chứng nhưng ở đây tôi chỉ phác vài gợi ý kèm từ khóa trong tiếng Nhật để bạn nào quan tâm có thể tự tìm hiểu. Các số liệu thống kê các bạn có thể tìm ở phần “sách trắng” và “dữ liệu thống kê” trên các trang web của các bộ và văn phòng chính phủ Nhật Bản.

1. Già hóa dân số (tiếng Nhật gọi là 高齢化、少子化).

Biểu hiện rõ nhất của già hóa dân số là tỉ lệ sinh suy giảm, tỉ lệ người già tăng lên. Vấn đề này xuất hiện ở Nhật Bản từ lâu và ngày càng trầm trọng. Nó gây ra rất nhiều hệ lụy và tạo nên vòng luẩn quẩn: thiếu lao động, gia tăng gánh nặng tiền lương hưu và phúc lợi xã hội, suy giảm sức mua làm kinh tế trì trệ, hoang phế hóa các khu dân cư, đặt áp lực lên các thiết chế xã hội phải thích ứng với …người già. Rõ nhất có thể thấy là Nhật Bản phải sử dụng lực lượng lao động người nước ngoài bao gồm cả tu nghiệp sinh để bù đắp sự thiếu hụt lực lượng lao động trẻ. Chính sách về nhập cư để “hoa kỳ hóa” Nhật Bản đã được bàn thảo nhưng vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Rất nhiều trường học phải đóng cửa vì thiếu…học sinh…

Nước Nhật đang lúng túng với vấn đề này vì để giải quyết phải có những chính sách liên hoàn, hệ thống và lâu dài.

Nhật Bản trong mắt thực tập sinh của Việt Nam như thế nào?

Dân số Nhật Bản

2. “Quá mật hóa” và “hoang phế hóa” (過密問題、過疎問題).

“Quá mật hóa” hiểu một cách đơn giản là hiện tượng dân số tập trung mạnh và nhanh với số lượng lớn ở các đô thị gây nên một loạt hệ lụy khác về kinh tế, xã hội, môi trường. Ngược lại “hoang phế hóa” là hiện tượng dân số của địa phương nào đó suy giảm mạnh làm cho các chức năng kinh tế, xã hội…của nơi đó trì trệ và rơi vào khủng hoảng. Hai hiện tượng này có liên quan rất chặt chẽ đến chính sách phát triển kinh tế vĩ mô và quy hoạch đô thị. Hiện tượng dân cư nông thôn đổ về thành phố kiếm sống sẽ gây ra cả hai hiện tượng trên.

3. “Xã hội vô duyên” (無縁社会) .

Đây là hiên tượng được diễn tả bằng thuật ngữ khá khó dịch sang tiếng Việt. Đây là hiện tượng các hộ độc thân tăng lên và mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng trở nên hời hợt. Thuật ngữ “xã hội vô duyên” là một từ mới được sinh ra và được sử dụng lần đầu tiên trong chương trình truyền hình của NHK năm 2010. Từ “duyên” ở đây có lẽ được dùng với nghĩa chỉ sợi dây liên hệ giữa con người với con người.

Hiện tượng xã hội này có liên quan mật thiết với hiện tượng kết hôn muộn (bankon) và già hóa dân số. Nhịp sống xã hội công nghiệp và lối sống hiện đại cũng góp phần tạo nên nó. Ozaki Mugen trong “Cải cách giáo dục Nhật Bản” đã từng nhận định rằng “công nghiệp hóa” và “cá nhân hóa” là hai dòng chảy cơ bản của xã hội Nhật Bản từ thời cận đại.

Làm việc ở Nhật Bản

Trong dòng chảy đó mối quan hệ giữa con người với con người trở nên “mỏng đi” và bị bao vây bởi sự “cô độc”. Mối quan hệ gia đình cũng bị phá vỡ khi con cái không sống cùng cha mẹ khi trưởng thành, các chức năng kinh tế, giáo dục, tôn giáo của gia đình chuyển sang cho các tổ chức khác. Những khó khăn của nền kinh tế, sự sụp đổ của chế độ tuyển dụng suốt đời, sự bảo vệ thông tin-quyền riêng tư nghiêm ngặt đã tạo nên những mối quan hệ “khách sáo” và “xa cách”.

“Xã hội vô duyên” là thủ phạm trực tiếp của nạn tự sát (Nhật Bản mỗi năm có khoảng 3 vạn người tự sát). Theo dõi truyền hình Nhật thì thấy rất nhiều trường hợp tự sát là trong lúc khó khăn thiếu người “đồng cảm”, “chia sẻ”….